Archive for Tháng Một 27th, 2011

Thần Học Đại Kết 4-4

Thần Học Đại Kết 4-4

Phần 4. Những Hướng Đi Của Phong Trào Đại Kết

Lm Giuse Phan Tấn Thành op
Trong bài hôm nay, trước hết chúng ta hãy kiểm điểm những hướng đi của phong trào đại kết từ công đồng Vaticano II đến nay. Đồng thời, chúng ta thử tìm hiểu xem những dự án tương lai. Chúng tôi dựa trên hai tài liệu được công bố gần đây. Thứ nhất là Kim chỉ nam áp dụng những nguyên tắc và quy chuẩn của đại kết (Directory for the application of principles and norms on ecumenism) do “Hội đồng Tòa thánh cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu” (Pontificium Consilium ad Unitatem Christianorum Christianorum fovendam) xuất bản ngày 25/3/1993. (Nên biết rằng đây là danh xưng mới của Văn phòng Hợp nhất các kitô hữu kể từ khi cuộc cải tổ giáo triều Rôma năm 1988). Văn kiện thứ hai là thông điệp Ut unum sint của đức Gioan Phaolo II ban hành ngày 30/5/1995, (viết tắt UUS) gồm có ba chương với những tựa đề:

1) Sự dấn thân của Giáo hội công giáo vào công cuộc đại kết.

2) Các kết quả của sự đối thoại.

3) Đường còn xa lắm không?

Thông điệp trưng dẫn rất nhiều đoạn văn của công đồng Vaticano II và của Kim chỉ nam. Điểm khác biệt của thông điệp ở chỗ là một đàng kiểm điểm những thành quả do việc đối thoại; và đàng khác, phác họa những bước còn phải tiếp tục.

I. Những thành quả của cuộc đối thoại đại kết.

Khi đánh giá kết quả của công cuộc đối thoại đại kết trong thời gian 30 năm qua, thì nhiều người có cảm giác bi quan bởi vì mỗi phe cứ dậm chân tại chỗ! Thực ra thì cần thành thực thú nhận rằng không dễ gì xóa nhòa trong vòng 30 năm những vết thương và thành kiến đã mang từ bao thế kỷ. Tuy nhiên, chúng ta không nên chỉ đánh giá hậu quả của cuộc đối thoại qua các bản văn thần học hay qua những nghi thức sát nhập các Giáo hội. Chúng ta cần mở rộng tầm nhìn, hướng tới những hình thức khác nhau của cuộc đối thoại mà công đồng đã đề ra. Như chúng ta đã biết, có ba con đường chính: tinh thần; đạo lý, hợp tác.

A. Đại kết về tinh thần.

Bước đầu tiên của việc đại kết là cải hoán nội tâm. So với dĩ vãng, thiết tưởng không phải là chuyện nhỏ khi mà ngày nay các Kitô hữu không còn coi nhau như thù địch nữa nhưng họ đã biết nhìn nhận nhau như anh em. Hơn thế nữa, chúng ta không coi những người công giáo, chính thống, tin lành như là những phần tử thuộc ba tôn giáo khác nhau ! Đâu phải thế: tất cả đều là tín đồ của một tôn giáo mà thôi. Điều này được biểu lộ cách rõ rệt vào dịp các tôn giáo họp nhau để cầu nguyện cho hòa bình tại Assisi vào ngày 27/10/1986. Các tín đồ của mỗi tôn giáo cầu nguyện chung với nhau dựa theo lòng tin của mình: Ấn giáo, Phật giáo, Do thái giáo, Hồi giáo vv. Còn tất cả các Kitô hữu thì chỉ họp thành một nhóm, cho dù là công giáo, chính thống, lutero, Cải cách vv.

Trong lãnh vực thần học đại kết, ngoài việc các tín đồ Kitô giáo nhìn nhận nhau như anh em, người ta cố gắng tiến tới bước nhìn nhận các giáo hội như chị em (églises soeurs). Một dấu hiệu của tình nghĩa huynh đệ được biểu lộ qua các cuộc viếng thăm giữa các vị lãnh đạo tối cao của các Giáo hội, thí dụ các cuộc thăm viếng hỗ tương giữa ĐTC với các Thượng phụ chính thống, các Giáo chủ Cantebury của Anh giáo, hay Luther (UUS 24-25).

Trong lãnh vực đại kết tinh thần, không thể nào bỏ qua việc cầu nguyện. Ngoài những buổi cầu nguyện cho sự hợp nhất được diễn ra giữa lòng mỗi Giáo hội, còn phải kể tới các buổi cầu nguyện chung giữa các Giáo hội. Dù sao thì hằng năm hầu như hết các Giáo hội đều dành ra một tuần để cầu nguyện cho sự hợp nhất. Từ nhiều năm qua, các ý chỉ cầu nguyện được soạn do một tiểu ban hỗn hợp giữa công giáo và Hội đồng thế giới các Giáo hội. Một cử chỉ đáng để ý là năm 1994, đức Thượng phụ Constantinôpôli Bartôlômêo I đã nhận dọn những bài suy niệm các chặng đàng Thánh giá do ĐTC chủ sự ngày thứ 6 tuần thánh ở Rôma. Sang năm 1995 đến lượt của nữ tu Minke de Vries, thuộc tu viện Tin lành Grandchamp bên Thụy sĩ.

Sự thông hiệp trong kinh nguyện đạt tới mức cao độ khi cử hành các bí tích, nhất là Thánh Thể. Giáo hội công giáo đã ra những quy luật về việc “thông công bí tích” (communicatio in sacris), với những cấp độ khác biệt tùy theo bản tính của từng bí tích cùng như đạo lý đức tin của của mỗi Giáo hội (xem bộ giáo luật latinh, đ.844; Kim chỉ nam số 122-136).

B. Đối thoại thần học.

Trên đường tìm về hợp nhất, sự đối thoại về đức ái phải đi đôi với sự đối thoại về chân lý (UUS 32). Những cuộc đối thoại thần học không phải nhằm vạch bới những điểm sai lầm, nhưng tiên vàn để đánh tan những thiên kiến, và trình bày cho nhau biết những cách thức suy tư hành động của mình. Sau đó cần phải chung nhau xét lại mức độ trung thành với chính chân lý là đức Kitô (xc UUS 33-35).

Các cuộc đối thoại thần học có thể diễn ra song phương hay đa phương.

1) Những cuộc đối thoại song phương đáng kể nhất là

– với các Giáo hội chính thống (ủy ban thần học hỗn hợp được thành lập từ năm 1980). Ba văn kiện đã được thông qua: “Mầu nhiệm Hội thánh và Thánh thể dưới ánh sáng của Chúa Ba ngôi” năm 1982; “Đức tin, bí tích và sự hợp nhất của Hội thánh” năm 1987; “Bí tích Truyền chức trong cơ chế bí tích của Hội thánh” năm 1988; chương trình làm việc dự trù văn kiện kế tiếp là “Quyền bính trong Hội thánh”.

– với các Giáo hội Đông phương đã ly khai từ công đồng Epheso và Calcedonia. Các Giáo hội này đã tuyên xưng thiên tính của đức Kitô theo đạo lý tông truyền (UUS 62).

– với các Giáo hội Luterô. Sau những thỏa thuận đã đạt về Lời Chúa (1972), Thánh Thể (1978), sự hợp nhất Giáo hội (1980; 1984) người ta hy vọng sẽ ký kết thỏa thuận về sự công chính hóa vào năm 1997.

– với Giáo hội Anh quốc: đạo lý về Thánh thể, tác vụ và quyền bính (1968), sự cứu rỗi (1987), sự thông hiệp (1990).

– với các Giáo hội khác, thì sự đối thoại tiến hành chậm hơn; tuy nhiên cũng đã có những thoả thuận với giáo hội cải cách (1984; 1990), metođist, baptist, pentecostalist …

Trên đây là nói sự đối thoại song phương giữa Công giáo và các Giáo Hội khác. Nhưng chúng ta không nên quên rằng giữa các Giáo hội ngoài Công giáo cũng có những đối thoại song phương khác.

2) Những cuộc đối thoại đa phương thường diễn ra nhờ ủy ban “Đức Tin và Định chế” (Faith and Order), với những văn kiện về “Bí tích rửa tội, thánh thể, tác vụ” (BEM), và “Bản giải thích đức tin tông truyền”.

Bên cạnh những cuộc đối thoại ở cấp hoàn cầu, cũng nên biết là còn những cuộc đối thoại ở cấp quốc gia. Đặc biệt tại Âu châu, Liên hiệp các Hội đồng giám mục của công giáo (Conférences épiscopales européennes) có những cuộc gặp gỡ thường xuyên với Hội đồng các Giáo hội Âu châu (Conférence des Eglises européennes).

Thông điệp Ut unum sint (số 79) cho biết còn có 5 điểm phải đào sâu thêm ngõ hầu có thể đạt tới sự nhất trí về đức tin: (1) mối liên hệ giữa Kinh thánh và Thánh truyền. (2) Thánh Thể như là bí tích của Mình Máu Chúa Giêsu, hiến lễ ngợi khen dâng lên Chúa Cha, hy lễ tưởng niệm và sự hiện diện của đức Kitô. (3) Bí tích truyền chức. (4) Huấn quyền của giáo hoàng và các giám mục. (5) Trinh nữ Maria. Thêm vào đó, các tuyên ngôn, kết quả của những cuộc đối thoại, cần phải được các Giáo hội tiếp nhận (receptio) và đem ra áp dụng (UUS số 80-81).

C. Đối thoại về hợp tác.

1. Hợp tác trong chứng tá đức tin. Có lẽ hình thức gây chú ý hơn cả là hợp tác trong việc dịch Kinh thánh. Nhưng đức Gioan Phaolô II muốn lưu ý tới một hình thức hùng hồn hơn nữa, đó là trong những cơn bách hại, các Kitô hữu đã cùng nhau làm chứng cho đức Kitô đến mức đổ máu đào. Các Giáo hội có thể viết chung một cuốn Tử đạo thư (Martyrologium), (xem số 83-84 của thông điệp).

2. Hợp tác trong việc phụng sự nhân loại, tựa như bảo vệ nhân quyền, bảo vệ môi sinh, các công tác y tế từ thiện, các chương trình cứu trợ chống đói hay khi có thiên tai… (Social ecumenism).

II. Đường còn xa lắm không ? (Quanta nobis est via)

Chừng nào các Kitô hữu mới được hợp thông hoàn toàn? Sự hợp thông ấy sẽ diễn ra qua hình thức nào?

Trải qua các cuộc đối thoại đại kết, nhiều đồ án khác nhau đã được đề ra.

1) Đồ án cũ nhất về phía Giáo hội công giáo là tất cả các chiên lạc phải ăn năn trở về tùng phục ĐTC. Mô hình này đã bị khai tử từ công đồng Vaticano II.

2) Một mô hình do các nhà thần học Luther đề ra là “sát nhập hữu cơ” (organic union). Trong một Hội thánh hợp nhất, mỗi Giáo hội hiện tại phải nhường nhịn một phần cá tính của mình ngõ hầu hợp thành một cộng đồng mới. Do đó, không phải là các Giáo hội khác phải trở về với Giáo hội công giáo, mà cả Giáo hội công giáo cũng phải nhường nhịn một số yêu sách để tiến tới hợp nhất (unity in reconciled diversity). Nguyên ủy của sự hợp nhất không hẳn là Đức Giáo hoàng.

3) Đối lại với hai mô hình vừa nói (chủ trương một nguyên ủy hợp nhất), mô hình thứ ba cho rằng nguyên ủy ấy không cần. Sự hợp nhất có thể thành hình theo mô thức “liên hiệp” (confederation), nhằm một mục tiêu hợp tác trong những lãnh vực thực tiễn (unity as solidarity). Nói khác đi, mô hình này muốn bảo vệ tính cách đa nguyên của các Giáo hội.

4) Mô hình thứ tư xin phó thác sự hợp nhất cho Chúa quan phòng. Thay vì mơ tưởng những dự án viễn vông lâu dài, một số người chủ trương đi từng bước một, qua sự nhìn nhận đạo lý và tác vụ song phương. Thí dụ tại Âu châu, các Giáo hội Luther và Calvino đã thỏa thuận với nhau về những điểm chính yếu; vì vậy họ chấp nhận cho các tín hữu đôi bên có thể tham dự vào các lễ nghi phụng tự của nhau, và các mục sư có thể đồng tế hay cử hành trong nhà thờ của đôi bên. Đây là hình thức “nhìn nhận hỗ tương” (mutual recognition).

5) Các Giáo hội chính thống thì đưa ra mô hình gọi là “thông hiệp công đồng” (conciliar fellowship): công đồng sẽ đóng vai thẩm quyền tối cao trong Hội thánh, duy trì mối hiệp thông giữa các giáo hội; còn mỗi giáo hội thì sẽ được quyền duy trì sắc thái của mình. Tiếc rằng chính các Giáo hội chính thống cũng chưa triệu tập nổi một công đồng liên chính thống nữa.

6) Về phía công giáo, một yêu sách của sự hiệp nhất là phải có một nguyên ủy ở nơi Giám mục Rôma. Điều này được đức Gioan Phaolo II tái khẳng định ở thông điệp “Ut unum sint” (số 89). Tuy nhiên, ngài cũng thêm rằng vai trò nguyên ủy ấy cần phải được hình dung theo thể thức đã có vào ngàn năm thứ nhất (số 95), trong sự thông hiệp với cộng đoàn Giám mục. Nói thế cũng có nghĩa là một Hội thánh hợp nhất không phải là một dự án tưởng tượng sẽ xảy ra trong tương lai, nhưng nó là một thực tại đã có trong lịch sử rồi. Trong quá khứ, các Giáo hội đã có kinh nghiệm chung sống với nhau, đã duy trì mối dây thông hiệp tuy dù có những khác biệt về truyền thống thần học, phụng vụ, kỷ luật.

Tuy dù mô hình hợp nhất thuộc quá khứ hay thuộc tương lai, sự thực đau thương là các Kitô hữu vẫn còn chia rẽ. Bổn phận của mỗi người chúng ta là nỗ lực góp phần vào việc kiến tạo sự hợp nhất, ít là qua việc cầu nguyện và cải hoán.

Thần Học Đại Kết 3-4

Thần Học Đại Kết

Phần 3. Giáo Hội Công Giáo Từ Vaticano II
Với Công Cuộc Đại Kết

Lm Giuse Phan Tấn Thành op

Như đã có dịp trình bày, Văn phòng cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu được thiết lập ngày 5/6/1960 trong thời gian chuẩn bị công đồng Vaticano II. Cơ quan này lo tiếp xúc với các Giáo hội ngoài công giáo, để gởi các đại biểu làm quan sát viên tại công đồng (từ 40 vị vào lúc khai mạc lên tới hơn 100 vào ngày bế mạc). Văn phòng cũng đảm trách việc soạn thảo sắc lệnh của công đồng về vấn đề hợp nhất và những văn kiện chấp hành kế tiếp. Ngoài ra, cũng nên biết là Văn phòng đã chịu trách nhiệm soạn thảo tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng.

I. Công đồng Vaticano II

Văn kiện căn bản là sắc lệnh về đại kết (Unitatis redintegratio) được ban hành ngày 21/11/1964. Tuy nhiên, vấn đề đại kết được đề cập tới ở nhiều văn kiện khác của công đồng. Chúng ta chỉ ghi nhận vài bản văn chính:

– Hiến chế về Mặc khải không những nhằm giải quyết vấn đề tương quan giữa Thánh kinh với Thánh Truyền mà Luther đã gợi lên, nhưng còn nói tới việc hợp tác trong việc dịch Kinh thánh (số 22).

– Hiến chế về Hội thánh nhìn nhận rằng các Giáo hội ngoài công giáo cũng thuộc về Hội thánh của đức Kitô (số 8 và 15).

– Hiến chế về các Giáo hội Đông phương nhìn nhận rằng sự hợp nhất công giáo không loại trừ những khác biệt về phụng vụ, kỷ luật và truyền thống (số 2-3).

Sắc lệnh về Đại kết gồm có ba chương:

1) Những nguyên tắc công giáo về đại kết.

2) Việc thực hành đại kết.

3) Các Giáo hội và giáo đoàn ly khai với tông tòa Rôma.

A. Trong chương một, công đồng phát biểu những xác tín về ý nghĩa và mục tiêu của phong trào đại kết. Nên biết là trong bản dự thảo đầu tiên, tựa đề của chương một là Những nguyên tắc về việc đại kết công giáo (De oecumenismi catholici principiis); nhưng sau đó, ủy ban soạn thảo đã sửa lại là: Những nguyên tắc công giáo về việc đại kết (De catholicis oecumenismi principiis). Lý do là vì ở đây, công đồng bày tỏ lập trường của Giáo hội công giáo về vấn đề đại kết. Còn việc đại kết thì chỉ có một, chung cho hết tất cả các Kitô hữu, chứ không có chuyện đại kết công giáo, đại kết tin lành, vv.

Điều đáng chú ý là tuy rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một thực trạng không thể chối cãi, nhưng công đồng muốn trình bày một cái nhìn khác về sự hợp nhất, đó là: giữa các Kitô hữu đã có sự hợp nhất rồi, nhưng mà chúng ta còn phải cố gắng tiến tới sự hợp nhất hoàn hảo hơn. Nói khác đi, chúng ta không đi từ chỗ chia rẽ tới chỗ hợp nhất, nhưng là đi từ sự hợp nhất bất toàn sang sự hợp nhất toàn vẹn (communio imperfecta – plena communio). Thực vậy, giữa các Kitô hữu đã có những yếu tố hợp nhất rồi: qua bí tích rửa tội, chúng ta đã đựơc tháp nhập vào thân thể của đức Kitô, đã được trở thành con Thiên Chúa, đã được lãnh nhận ân sủng của Chúa Thánh Thần. Chính những yếu tố thần linh đó thúc đẩy các Kitô hữu tìm cách biểu lộ sự hợp nhất kể cả qua những yếu tố hữu hình nữa.

Tuy vẫn thâm tín rằng Giáo hội công giáo chứa đựng cách sung mãn những yếu tố cấu thành Hội thánh của đức Kitô, nhưng công đồng nhìn nhận rằng các cộng đoàn khác cũng chứa đựng những yếu tố đó nữa. Nên biết là ở đây công đồng không bàn tới các Kitô hữu ngoài công giáo như là những cá nhân riêng rẽ, nhưng công đồng nói tới các cộng đoàn Kitô hữu ở ngoài công giáo. Riêng về trách nhiệm luân lý của hiện tượng chia rẽ, công đồng khiêm tốn nhìn nhận rằng cả hai bên đều có lỗi. Dù sao các Giáo hội ngoài công giáo không bị gọi là phe “ly giáo, lạc giáo” như trước nữa! Con đường tìm về hợp nhất được tiến hành qua sự thống hối và khẩn cầu lòng thương xót của Chúa.

B. Bước sang việc thực hành việc đại kết (trong chương hai), sắc lệnh đề ra ba hình thức: tinh thần; thần học, hợp tác. Nên biết là công cuộc đại kết không phải chỉ liên can tới các nhà lãnh đạo các giáo hội, nhưng tất cả các tín hữu cần dấn thân cho việc hợp nhất các Kitô hữu, ít là qua việc cầu nguyện và chứng tá (số 5).

1) Đại kết về tinh thần (Spiritual Ecumenism). Cuộc đối thoại đại kết giả thiết hai điều kiện tiên quyết để có thể tiến hành đó là: a/ sự canh tân hay cải cách Hội thánh (số 6); b/ sự cải hoán nội tâm của mỗi tín hữu (số 7). Cả hai đều nhằm tới sự trung thành với đức Kitô. Trong những phương thế hỗ trợ cho việc đại kết tinh thần, công đồng nhắc tới: sự tha thứ cho nhau, sống đời thánh thiện và nhất là cầu nguyện cho việc hợp nhất (số 8).

2) Đại kết về thần học. Nó bao hàm việc tìm hiểu lẫn nhau, qua việc nghiên cứu đạo lý, đối chiếu những tương đồng và khác biệt. Để cho cuộc đối thoại thần học mang lại kết quả, công đồng vạch ra cho các nhà thần học công giáo hai nguyên tác cần lưu ý khi học hỏi và trình bày đạo lý của Hội thánh.

a/ Cần phải biết phân biệt đâu là “nội dung” của đạo lý, và đâu là “cách thức diễn đạt” đạo lý. Nội dung đạo lý thì không thay đổi, nhưng cách thức diễn đạt thì lệ thuộc vào những điều kiện văn hóa lịch sử. –
b/ Cần phải biết phân biệt hệ cấp các chân lý (hierarchia veritatum), nghĩa là không phải tất cả các đạo lý đều có tầm quan trọng ngang nhau (số 11).

Sự hợp nhất cốt yếu về đức tin có thể bao hàm những khác biệt về nghi thức phụng tự và truyền thống kỷ luật (số 5). Công đồng lấy lại phương châm của đức Gioan XXIII: hơp nhất trong những điều cốt yếu, tự do trong những gì chưa chắc, bác ái trong hết mọi trường hợp (in necessariis unitas, in dubiis libertas, in omnibus caritas).

3) Đại kết về hợp tác, nghĩa là cộng tác với nhau trong các công tác bác ái nhằm phục vụ nhân loại (số 12).

C. Sau khi đã nói tới những nguyên tắc tổng quát về lý thuyết cũng như về thực hành, công đồng bước sang phần áp dụng ở chương Ba. Chương này được phân thành hai mục rõ rệt: một đàng dành cho các Giáo hội Đông phương; đàng khác là các Giáo hội và giáo đoàn ly khai bên Tây phương. Sự phân biệt đó không phải chỉ dựa theo diễn tiến của hai giai đoạn chia rẽ trong lịch sử, nhưng nhất là dựa theo căn bản thần học: các Giáo hội Đông phương gần gũi với Công giáo hơn, về tín lý cũng như về các bí tích; còn các nhóm ly khai vào thời Cải cách không còn duy trì tất cả 7 bí tích nữa, đặc biệt là bí tích truyền chức thánh, vì thế không những đã làm thay đổi cơ cấu phẩm trật của Hội thánh mà còn gây ra những khó khăn khi bàn về giá trị của các buổi cử hành Thánh Thể và thống hối.

Chính vì dựa trên cơ cấu phẩm trật mà Sắc lệnh phân biệt giữa giáo hội và giáo đoàn. Tiếng Giáo hội (hay: Hội thánh, ecclesia) dành cho những cộng đoàn nào có chức Giám mục (điển hình là các Giáo hội Đông phương); nếu không có Giám mục thì gọi là giáo đoàn (communitas ecclesiastica). Nên biết các cơ quan đại kết ngoài công giáo không chấp nhận sự phân biệt đó. Dù sao thì trong sắc lệnh này, công đồng muốn đề cao những điểm trùng hợp hơn là nêu lên những dị biệt. Chẳng hạn khi nói tới các giáo đoàn ly khai bên Tây, văn kiện đã trình bày những yếu tố sau đây: việc tuyên xưng đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và Trung gian giữa Thiên Chúa với loài người (số 20); lòng hâm mộ học hỏi Kinh thánh (số 21); bí tích rửa tội (số 22); sống đạo qua việc cầu nguyện và sinh hoạt xã hội (số 23).

Một cử chỉ có ý nghĩa đại kết không nhỏ vào hôm trước khi bế mạc công đồng (7/12/1965) là việc Đức Giáo hoàng Phaolo VI và đức Thượng phụ Constantinopoli Atenagora I rút lại vạ tuyệt thông từ năm 1054.

II. Sau công đồng Vaticano II

Trong số những văn kiện của Tòa thánh có liên can đến đại kết, chúng ta có thể ghi nhận: 1/ Những huấn thị áp dụng; 2/ Bộ giáo luật.

A. Những huấn thị áp dụng.

Năm 1967, Văn phòng hợp nhất đã xuất bản phần thứ nhất của Kim chỉ nam để áp dụng sắc lệnh của công đồng (Directory for the Application of the Second Vatican Council’s decisions on Ecumenism: AAS 59, 1967, 574-592).

Phần thứ hai ra đời năm 1970 (AAS 62,1970, 705-724). Sự đối thoại đại kết cần được tiến hành qua việc thiết lập những ủy ban cấp giáo phận và cấp toàn quốc, cũng như qua việc đào tạo các thành phần Dân Chúa.

Vào năm 1993, cả hai phần được duyệt lại, và đúc kết thành một tài liệu duy nhất mang tên là Kim chỉ nam áp dụng những nguyên tắc và quy chuẩn của đại kết (Directory for the application of principles and norms on ecumenism, 25/3/1993).

Tài liệu này gồm có 5 chương như sau:

1) Bản chất của việc cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu.

2) Những cơ quan của Giáo hội Công giáo nhằm phục vụ công cuộc đại kết.

3) Việc huấn luyện đối thoại đại kết.

4) Việc chia sẻ các bí tích và kinh nguyện giữa các Kitô hữu.

5) Sự hợp tác trong lãnh vực đối thoại và chứng tá. Chúng tôi sẽ trở lại nội dung của nó trong bài tới.

B. Bộ giáo luật latinh 1983.

Tuy là một văn kiện pháp lý chi phối nội bộ của Giáo hội công giáo, song không vì thế mà bộ giáo luật không cần biết tới chuyện đối thoại đại kết. Thực vậy bộ giáo luật đã dành ra số 755 (trong những điều khoản dẫn nhập vào quyển Ba) để nói về phong trào đại kết. Đúng ra, ở chỗ này nhà lập pháp chỉ xác định thẩm quyền điều hành công cuộc đó. Chúng ta có thể nhận thấy những khoản luật khác có tính cách thực tiễn hơn.

Thí dụ: về việc hợp tác trong việc dịch Kinh thánh (đ.825 $2); về việc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, giải tội và xức dầu (đ.844); vấn đề hôn nhân hỗn hợp thì được bàn ở các đ. 1124-1125. Các đại biểu của các Giáo hội ngoài công giáo có thể được mời làm quan sát viên trong các công nghị giáo phận (đ.463 3).

Dù sao ảnh hưởng lớn nhất của phong trào đại kết trong việc soạn thảo bộ giáo luật được nhận thấy ở đ.11. Bộ luật cũ có tính cách bó buộc tất cả các Kitô hữu; còn bộ luật 1983 chỉ bó buộc các tín đồ của giáo hội công giáo. Một thay đổi về từ ngữ cũng được du nhập khi nói về việc gia nhập Giáo hội công giáo: từ nay sẽ không dùng từ trở lại đạo (convertire) cho một người Kitô hữu ngoài công giáo, nhưng phải nói là được đón nhận vào thông hiệp (receptus).

Bộ giáo luật Đông phương thì dành hẳn thiên XVIII cho vấn đề đại kết (de oecumenismo seu de christianorum unitate fovenda), từ đ.902-908.

Thần Học Đại Kết 2-4

Thần Học Đại Kết 2-4

Bài 2. Lịch Sử Phong Trào Đại Kết

Lm Giuse Phan Tấn Thành op

Trong bài trước, chúng ta đã đi ngược lại dòng lịch sử để tìm hiểu những lý do đã đưa các tín đồ của đức Kitô đền chỗ phân rẽ trong 20 thế kỷ qua. Trong bài hôm nay thì chúng ta quan sát một hiện tượng ngược lại, đó là lịch sử của những nỗ lực để tái lập sự hiệp nhất.

Chúng tôi đã có dịp nhắc đến hai công đồng Lyon II (1274) và Firenze (1439) đã gắng tìm ra những công thức thỏa hiệp giữa Rôma và Constantinôpôli; nhưng sự hợp nhất không được bền lâu. Vào thời Cải cách, nhiều cuộc gặp gỡ giữa Luther với Tòa thánh đã diễn ra trước và trong công đồng Trentô. Hồi triệu tập công đồng Vaticano I, đức Piô IX đã mời các Giáo hội chính thống đến dự, nhưng thư mời bị gửi trả lại.

Thực ra, thì cho tới đầu thế kỷ 20, Giáo Hội Công giáo hiểu sự hợp nhất theo nghĩa là các phe phái kia hãy ăn năn trở lại phục tùng đức Giáo hoàng: đó là hình ảnh lý tưởng của một đàn chiên với một chủ chiên. Công tác hợp nhất được ủy thác cho bộ Truyền giáo: cơ quan này phải tìm cách để cho người ngoại giáo lẫn người lạc giáo trở lại với chính đạo. Dưới viễn ảnh đó, không có chuyện “đối thoại đại kết”. Danh từ này được đặt lên do một phong trào bắt nguồn từ các nhóm Cải cách. Chúng ta hãy theo dõi lịch sử của nó, trước tiên là ở ngoài Giáo hội công giáo, và sau đó trong Giáo hội Công giáo.

I. Phong trào đại kết

Tiếng “đại kết” dịch bởi từ ngữ oecumenismus. Thực ra, thì từ này trong nguyên ngữ Hy lạp và Latinh mang rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Hy lạp, từ “oikouméne” (bởi danh từ “oikos”: nhà) lúc đầu có nghĩa là những vùng đất đã có người cư ngụ (đã xây cất nhà cửa), rồi dần dần mở rộng ra đến toàn thể thế giới. Cách riêng hoàng đế Rôma mang tước là “oikumêne”, nghĩa là bá chủ khắp thế giới (chỉ trừ những vùng đất hoang dã của quân man di, barbaroi). Từ đó mà sinh ra tính từ “oecumenicus” (thí dụ: “concilium oecumenicum”: công đồng do hoàng đế triệu tập, hay là công đồng quy tụ hàng giám mục thế giới). – Khi phong trào hợp nhất các Kitô hữu ra đời vào thế kỷ 20, người ta muốn lấy lại tiếng “oecumenismus” để biểu lộ niềm khát khao được thấy Giáo hội mang chiều kích hoàn vũ, vượt qua hết mọi hình thức phân ly chia rẽ.

Có thể lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào đại kết cận đại. Vào năm ấy một Đại Hội của các Hội truyền giáo Tin lành (World Missionary Conference) được tổ chức Edinburgh, (Scotland). Lý do đưa tới việc tổ chức Đại hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo, khi mà các giáo đoàn trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: “Tại sao các ông đều rao giảng một đức Kitô như nhau, mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm, nào là metodist, nào là luteranist, nào là episcopalist? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin mừng của đức Kitô mà vừa mang theo các sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì?” . Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một chướng ngại cho việc Truyền giáo, cho nên các Hội Truyền giáo mới quyết định nhóm họp lại để tìm cách thức giải quyết. Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền giáo đã dần dần đưa tới sự gặp gỡ giữa các Giáo hội dưới danh nghĩa của Hội đồng quốc tế truyền giáo (International Missionary Council) ra đời năm 1921.

Từ kinh nghiệm gặp gỡ vừa nói, dần dần nảy ra hai cơ quan khác, biểu lộ cho hai đường lối để tiến tới sự hiệp nhất: một đàng về đạo lý, một đàng về hoạt động. Cơ quan thứ nhất mang tên là Faith and Order (Pháp: Foi et Constitution. “Đức tin và Định chế) chuyên về các vấn đề đức tin và thể chế của Giáo hội. Họ đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế ở Lausanne (1927) và Edinburgh (1937). Cơ quan thứ hai mang danh là Life and Work (Pháp: Vie et Action. “Đời sống và Hành động”) được thành hình ngay từ năm 1925 tại Hội nghị Stockholm (Thụy điển). Phương châm của họ là: “đạo lý năng gây chia rẽ, còn hành động thì sẽ gây đoàn kết”. Vì vậy việc hợp tác vào các công tác phụng sự xây dựng xã hội sẽ dần dần đưa các giáo hội xích lại với nhau.

Tuy nhiên sau hội nghị lần thứ hai tại Oxford năm 1937, họ nhận thấy rằng sự chia rẽ về đạo lý cũng mang theo những chia rẽ về quan điểm hành động. Do đó mà hai cơ quan đã đồng ý sát nhập lại thành một Tổ chức mang danh là “Hội đồng thế giới các Giáo hội” (World Council of Churches), với quy chế tạm thời được biểu quyết tại Utrecht năm 1938. (Lưu ý: dựa theo Pháp ngữ, Conseil Oecuménique des Églises trong tiếng Việt thường hay dịch là “Hội đồng đại kết các Giáo hội”, nhưng có lẽ không chỉnh lắm; có thể đối chiếu với tiếng Tây ban nha Consejo Mundial de las Iglesias). Tiếc rằng thế chiến thứ hai bùng nổ, cho nên phải chờ tới năm 1948 thì mới có thể triệu tập Đại hội đầu tiên tại Amsterdam (Hòa lan) từ ngày 22/8 tới 4/9. Tiêu chuẩn đạo lý căn bản để gia nhập Hội đồng là chấp nhận đức Kitô là Chúa Cứu thế.

Phải chờ tới năm 1961, Đại hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức phát biểu đạo lý căn bản như sau: “Hội đồng thế giới các Giáo hội là một hội nghị của các Giáo hội tuyên xưng đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu thế theo Kinh thánh; do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy nhất, Cha, Con và Thánh Thần”. Đúng ra đây không phải là một tín biểu mới, nhưng chỉ muốn đặt ra một cơ sở tối thiểu cho các cuộc đối thoại giữa các thành viên. Thực vậy, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, không thiếu lần có những nhóm tự xưng là Kitô hữu nhưng lại không chấp nhận thiên tính của đức Kitô hoặc không chấp nhận tín điều Chúa Ba Ngôi. Hội đồng thế giới các Giáo hội không phải là một thứ siêu Giáo hội, cũng chẳng phải là Giáo hội duy nhất mà phong trào đại kết mong đạt đến. Tổ chức này chỉ là nơi để các Giáo hội đến gặp gỡ học hỏi lẫn nhau, và tương trợ nhau trong sứ mạng truyền giáo. Trụ sở của Hội đồng đặt tại Genève.

Từ ngày thành lập tại Amsterdam năm 1948 đến nay, Hội đồng đã tổ chức các Đại hội sau đây: Evanston (1954), New Delhi (1961), Uppsala (1968), Nairobi (1975), Vancouver (1983) Canberra (1991). Đại hội lần tới được dự trù sẽ họp vào năm 1998 tại Harare (Zimbabwe).

Hiện nay có tới hơn 300 Giáo Hội đã làm thành viên của Hội đồng, trong đó có cả các Giáo hội chính thống. Giáo hội Công giáo không gia nhập Hội đồng, vì quan điểm khác nhau về Giáo hội học. Tuy nhiên, từ năm 1961, Giáo hội Công giáo gửi quan sát viên tham dự các Đại hội, và nhất là từ năm 1965 đã thành lập một nhóm làm việc chung với Hội đồng. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn cử 12 đại biểu làm thành viên chính thức của Ủy ban “Đức Tin và Định chế”. Như đã nói trên đây, vai trò của ủy ban này là nghiên cứu những khía cạnh thần học nhằm tiến tới sự hợp nhất các Kitô hữu. Theo quan điểm của ủy ban, sự hợp nhất các Kitô hữu có nghĩa là sự thông hiệp trong đức tin, trong đời sống làm chứng tá Phúc âm và trong sứ mạng truyền giáo. Để tiến tới sự hiệp nhất đó, càn phải qua 3 chặng sau đây:

1/ Cùng nhau tuyên xưng một đức tin tông truyền;

2/ Nhìn nhận nơi các Giáo hội cùng có chung những yếu tố tông truyền, đặc biệt là bí tích rửa tội, Thánh thể và các tác vụ;

3/ Thiết lập những cơ chế chung nhằm bảo đảm việc chung nhau làm chứng tá, cũng như những cơ quan có thẩm quyền quyết định đường lối hành động và giảng dạy.

Chặng thứ nhất được đánh dấu với văn kiện “Tuyên xưng một niềm tin” (Confessing the One Faith) được hoàn chỉnh vào năm 1993 trong phiên họp tại Santiago de Compostela. Chặng thứ hai được tiến hành với việc tham khảo lược đồ mang tên “Rửa tội – Thánh thể – Tác vụ” (Baptism, Eucharist, Ministry, gọi tắt bằng 3 chữ đầu là BEM, soạn tại Lima năm 1982).

II. Giáo hội công giáo với Phong trào đại kết

Trong số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía công giáo, ta có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ 19. Khi còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những cuộc hội thảo để xích lại gần Giáo hội công giáo. Ý nguyện đó vẫn tiếp tục sau khi cha gia nhập công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những năm 1921-26, tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord Halifax, một giáo dân Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự điều động của Hồng y Mercier.

Năm 1925, cha Lambert Beauduin (1873-1960) thành lập đan viện Biển đức tại Chevretogne và năm 1926, cha C.J. Dumont mở trung tâm “Istina” hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo hội Đông phương. Năm 1933, cha Paul Couturier (1881-1953) đã mở trung tâm công giáo đại kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kito hữu được hợp nhất. Năm 1937, cha Yves Congar (1904-95) xuất bản quyển sách Chrétiens désunis. Principes d’un “oecuménisme catholique”, một tác phẩm thần học công giáo đầu tiên về đại kết.

Thế nhưng đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa thánh tỏ ra dè dặt đối với phong trào đại kết: thông điệp Mortalium animos của đức Piô XI (6/1/1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm ly khai phải trở về với Giáo hội công giáo.

Dưới thời đức Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (20/12/1949) hé mở cho người công giáo được phép tham gia vào các hội nghị đại kết với một số điều kiện.

Phải chờ tới khi đức Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa thánh mới thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập công đồng Vaticano II, vào ngày lễ Hiện xuống năm 1960 (5/6), ngài đã cho thành lập Văn phòng cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea (1881-1968) làm chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm then chốt trong chương trình của công đồng.